Tiểu sử Nguyễn_Phúc_Hồng_Y

Hoàng tử Hồng Y sinh ngày 28 tháng 7 (âm lịch) năm Quý Tỵ (1833), là con trai thứ ba của vua Thiệu Trị, mẹ là là Nhị giai Thục phi Nguyễn Thị Xuyên[1]. Hồng Y là anh em cùng mẹ với An Mỹ Công chúa Huy Nhu và hoàng tử Hồng Kỳ (mất sớm). Thuở nhỏ, ông thông minh đĩnh ngộ, lúc lớn học rộng kinh sử, văn chương xuất sắc, rất được vua yêu[2].

Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), vua ngự giá ra Bắc làm lễ bang giao, sai Hồng Y cùng hoàng tử Hồng Nhậm (vua Tự Đức sau này) cùng đi. Ông hầu bên cạnh cẩn thận, khi hồi kinh được vua cha ban khen[2].

Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), tháng giêng, vua cho triệu các hoàng tử và hoàng đệ chưa được phong tước tất cả 10 người vào làm thơ ở điện Đông Các[3]. Bảy người trong số đó là các hoàng tử Hồng Phó, Hồng Y, Hồng Tố, Hồng Hưu và các hoàng đệ Miên Tằng, Miên Kiền, Miên Lâm đều trúng cách[4].

Tháng 3 (âm lịch) năm đó, vua phong tước ban thưởng cho cả 7 hoàng thân được trúng cách, hoàng tử Hồng Y được phong làm Kiến Thụy công (建瑞公)[4]. Các hoàng thân được phong tước lần đầu thường chỉ làm Quận công hoặc Quốc công, nhưng Hồng Y lại được đặc cách phong ngay đến tước Thân công, chứng tỏ ông rất được vua cha ưu ái.

Tháng 9 (âm lịch) cùng năm, Thái hoàng Nhân Tuyên ngày một yếu đi, viện Thái y dâng thuốc có chút công hiệu nên Quản viện Vũ Quýnh, Viện sứ Trần Viết Cật, Y chính Hoàng Đức Hạ đều được gia thưởng. Vua mừng, sai bộ Lễ đến tế ở miếu Tiên Y, cho thân công Hồng Y đến tế ở đền Thọ Quốc công (tước phong của ông Trần Hưng Đạt, cha của bà Nhân Tuyên), Hữu tham tri bộ Lễ là Tôn Thất Tĩnh đến tế ở đền họ Trần[5].

Tháng 12 (âm lịch), vua Thiệu Trị đến cung Từ Thọ làm lễ Tốt khốc của Thái hoàng Nhân Tuyên. Ngày 22 tháng đó gặp lễ Hợp hưởng ở các miếu, bộ Lễ xin ngày ấy sai quan làm lễ ở cung Từ Thọ, ngày 23 hôm sau mới làm lễ Tốt khốc[6]. Vua thấy không hợp lễ, cho là làm lễ Tốt khốc xong rồi làm lễ Hợp hưởng mới hợp nghi văn, rồi lấy ngày 25 tháng đó, sai Kiến Thụy công Hồng Y đến cung Từ Thọ, thay vua làm lễ Hợp hưởng, lại sai Hoằng Trị công Hồng Tố đến điện Gia Thành (nơi thờ bà Nhân Tuyên trong lăng Gia Long) kính cẩn làm lễ[6].

Đầu thời Tự Đức, hoàng đệ Hồng Y cùng với người chú là Tùng Thiện Quận vương Miên Thẩm vào hầu vua ở vườn tập bắn. Vua nhân đó ra đề “Quí đông tân tình, hậu uyển tập xạ” (Cuối đông trời nắng ra vườn sau tập bắn), sai làm bài liên cú (tức mỗi người làm một câu ghép thành một bài thơ), được vừa ý vua[2][7].

Năm Tự Đức thứ 2 (1849), vua đến nhà Thái học, thân công Hồng Y theo hầu, dâng lên vua bài Thị học thi (Quan sát việc học), được vua ngợi khen và cho chép vào tập thơ Tích Ung Canh Ca hội tập của Hồng Y[2][7].

Năm Tự Đức thứ 3 (1850), thầy học của các hoàng thân là Võ Xuân Cẩn, đồng thời là cha vợ của vua, dâng sớ nói: “Các hoàng thân phần nhiều chỉ thích chơi đùa, không đến nghe giảng”. Vua sai phủ Tôn Nhân xét duyệt thì 4 hoàng thân là Miên Sạ, Hồng Y, Hồng TốHồng Truyền đều chỉ đến nghe giảng có 4 ngày, nên bị phạt lương 3 tháng[8]. Một số hoàng thân khác cũng bị phạt lương vì việc này.

Năm Tự Đức thứ 11 (1858), Kiến Thụy công Hồng Y vì tội bọn thuộc lại trong phủ vào điện Hiếu Tư (nơi thờ vua Minh Mạng) nên bị phạt lương 1 năm[9]. Vua thương ông thiếu thốn, chuẩn cho đem phần thưởng trước để khấu trừ vào phần phạt[9].

Vua Tự Đức không thể có con do mắc di chứng của bệnh đậu mùa, nên năm thứ 21 (1868) mới chọn con trai thứ hai của hoàng đệ Hồng Y là công tử Ưng Ái (sau này là vua Dục Đức) vào ở viện Tập hiền cũ để nuôi, sai quan Nội các dạy học, năm ấy công tử 17 tuổi[10].

Năm Tự Đức thứ 25 (1872), Kiến Thụy công Hồng Y lên thọ 40 tuổi, vua đem phẩm vật trong kho và ngự chế 2 bài thơ ban cho ông[2]. Thơ rằng[7]:

Bài I:

Phiên âm:Giới đệ thân trung hậuDo nhi phân ngoại vinhVăn chương sư Tử KiếnĐức nghiệp mộ Đông BìnhLực thiêm niên cận trángThân nhàn phước dị tinhQuý dư đa bất cậpTứ tuế thiểm vi huynhDịch nghĩa:Trung hậu vốn tính trời sinh,Em yêu nhỏ tuổi, nổi danh trong ngoàiVăn chương Tử Kiến[11] kém tàiĐức hạnh xem cũng sánh vai Đông Bình[12]Càng già sức khỏe càng tinhThân nhàn mà được phước sinh vô cùngThẹn rằng ta chẳng ngang bằngNhờ hơn bốn tuổi mà thành ra anh.

Bài II:

Phiên âm:Ngô đệ tuy rằng chúngDuy quân khả kết minhTài nhân duyên học thựcĐức mậu đắc lân tìnhThu nguyệt tam bôi tửuXuân phong nhất trạo khinhGia đình chân lạc sựThế thượng tẩn phù danh.Dịch nghĩa:Em ta tuy thật là đôngChỉ có mình chú đáng cùng kết minhHọc hành nổi tiếng tài danhLại thêm đức hạnh vang quanh tiếng đồnTrời thu dăm chén rượu ngonGió xuân một chiếc thuyền con nhẹ nhàngGia đình êm ấm an khangPhù danh đâu dễ buộc ràng tấm thân.

Năm Tự Đức thứ 30 (1877), ngày 11 tháng 1 (âm lịch)[7], Kiến Thụy công Hồng Y qua đời, thọ 45 tuổi, vua thương tiếc, nghỉ triều 8 ngày, truy tặng cho ông làm Kiến Thụy Quận vương (建瑞郡王), ban thụyTuệ Đạt (慧達)[2][13]. Hoàng trưởng tử Ưng Chân (tức Ưng Ái) đặt hương án ở nhà sau Dục Đức đường, mặc phục tang, đứng vào hàng cháu làm lễ, đến khi an táng Hồng Y, vua đích thân làm bài văn tế[13].

Lăng của quận vương Hồng Y được táng ở phường Hương Vân, Hương Trà (xưa kia thuộc làng Lai Thành). Phủ thờ của ông hiện nằm trên đường Chi Lăng (thuộc phường Phú Cát, Huế).

Tháng 3 (âm lịch) năm Thành Thái thứ 9 (1889), vua Thành Thái truy tôn cho tổ phụ làm Kiến Thụy Thái vương (建瑞太王) (hay được biết đến là Thoại Thái vương), cải thụy thành Đôn Chính (敦正), nguyên cơ Lê Thị Ứng làm Kiến Thụy Thái vương phi (建瑞太王妃)[14].